Thân thế sự nghiệp Đỗ_Xuân_Công

Ông còn có tên là Đỗ Xuân Côi, sinh ngày 6 tháng 5 năm 1943, quê xã Quảng Nham, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa[2]. Thời trẻ, ông theo học bậc Trung học tại trường Trường cấp III Quảng Xương (nay là trường Trường Trung hoc phổ thông Quảng Xương 1)[3]. Năm 1963, ông nhập ngũ và phục vụ trong lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam.

Giữa năm 1964, ông phục vụ trên tàu tuần tiễu T-161 với cấp bậc Binh nhất, chức vụ Tiểu đội trưởng hàng hải (lái chính) của tàu. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, ông cùng với các đồng đội trên tàu T-161[4] tham gia trận đánh đầu tiên của Hải quân Việt Nam chống lại trận tập kích đường không của Hoa Kỳ tại cảng sông Gianh.[5][6]

Năm 1974,tốt nghiệp sĩ quan hải quân Học viện Hải quân Baku về nước, ông được phân công nhiệm vụ chỉ huy các biên đội tàu của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 171 Hải quân[7], tham gia chỉ huy các tàu pháo tấn công và tiếp quản các bến cảng từ Cửa Việt, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu và đến cảng Sài Gòn. Đầu tháng 10 năm 1975, ông được Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát giao nhiệm vụ làm thuyền trưởng chiếc tuần dương hạm chiến lợi phẩm "Phạm Ngũ Lão" của Hải quân Việt Nam Cộng hòa bỏ lại. Đây nguyên là tàu USCGC ABSECON – WHEC 374, thuộc lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ, hạ thủy năm 1943[8], được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa ngày 15 tháng 7 năm 1972, với số hiệu HQ-15 và được đặt tên là "Phạm Ngũ Lão". Tàu có chiều dài: 94,79 m, lượng giãn nước tối đa 3.200 tấn, có 4 động cơ diesel, 2 trục, 6000 bhp, vận tốc đạt đến 18 hải lý, tầm hoạt động lên đến 10.000 hải lý, được trang bị vũ khí và thiết bị điện tử tối tân. Đây là chiếc tàu lớn nhất và hiện đại nhất của Hải quân Nhân dân Việt Nam bấy giờ, với thủy thủ đoàn 200 người, trong đó có 76 nhân viên kỹ thuật của Hải quân Việt Nam Cộng hòa, được đào tạo nghiệp vụ tại Mỹ, tình nguyện ở lại phục vụ. Tàu được chuyển sang số hiệu mới là HQ-1 và dần thay thế các vũ khí Mỹ bằng các vũ khí của Liên Xô.[9]

Sau năm 1975, ông tiếp tục phục vụ trong Hải quân. Đến tháng 1 năm 1989, ông giữ chức Trưởng phòng Tác chiến Vùng 4 Hải quân Việt Nam, hàm Trung tá, tham gia công tác phối hợp với Binh đoàn 17, lực lượng đồn trú của Hải quân Liên Xô tại Cam Ranh. Cuối năm 1989, ông được thăng quân hàm Đại tá[10].

Năm 1997, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Khánh Hòa. Bấy giờ, ông đang là Phó Tư lệnh Hải quân, hàm Đại tá. Ông được bầu vào Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội.

Năm 2000, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Hải quân và giữ chức vụ này cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2004 với cấp bậc Phó đô đốc. Sau khi nghỉ hưu, ông sống cùng gia đình tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cũng được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh

Chuẩn Đô đốc (1998), Phó Đô đốc (2002)